Trang chủ > Tưởng nhớ và tri ân cụ Võ Văn Nhâm

Tưởng nhớ và tri ân cụ Võ Văn Nhâm

23/10/2025 10:26:23

Tham luận của ông Lâm Hoài Phương viết cho Tọa đàm về cụ Võ Văn Nhâm & gia phả chi họ Võ ở Bà Giã lúc 8h30 ngày 30/3/2025 tại tư gia hậu duệ ông Võ Văn Nhâm (số 303/16A Nguyễn Thị Lắng, xã Phước Vĩnh An,  huyện Củ Chi, TP.HCM).

Tóm tắt hành trạng ông Võ Văn Nhâm

Võ Văn Nhâm sinh năm 1815 -1868 (có nơi ghi sinh năm 1816, hoặc ước chừng sau năm 1818 vài năm) là con trưởng trong một gia đình có 9 anh em ở xứ Bà Giã, thôn Phước Vĩnh An nay là Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, TP.HCM, cha là Võ Văn Hay - mẹ là Nguyễn Thị Điền là gốc dân Thuận An - Huế di cư vào khai phá đất Gia Định - Đồng Nai vào những năm cuối thế kỷ 18. Võ Văn Nhâm lớn lên trong thời kỳ Pháp chiếm thành Gia Định. Với vóc dáng khỏe mạnh ông được cha cho đi học võ, sau đó ông tham gia nghĩa binh chống Pháp trong lực lượng của nghĩa quân Trương Định.

Sau khi Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định (1820 - 1864) bị bọn Huỳnh Tấn ám hại (1864) ông Võ văn Nhâm tham gia kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Trương Quyền - con của Trương Định (1844 - 1871). Trương Quyền còn có tên Trương Huệ hay Trương Tuệ, lập cứ địa tại ấp Truông Mít, Tây Ninh. Về nguyên nhân mất và năm mất của Trương Quyền các sách chép rất khác nhau:

- Trương Quyền bị bệnh sốt rét nặng, qua đời khi mới 22 tuổi (tức năm 1866. Theo website tỉnh Quảng Ngãi, lưu trữ 2009-12-16 tại Wayback Machine).

- Năm 1867, trong một trận bị giặc phục kích, Trương Quyền đã hy sinh. (Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, bản điện tử).

- Năm 1870, không thể nào vây bắt được Trương Quyền, bộ chỉ huy Pháp phải thuê người ám sát (Lịch sử Việt Nam [1858 - cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 81). Tuy nhiên, sách Hỏi đáp lịch sử (tập 4, tr. 133) lại ghi ông mất vì bệnh tại Cẩm Giang vào năm đó.

- Năm 1871, đến khi nghĩa quân tan rã vì thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men; Trương Quyền về rừng Bến Kéo (nay thuộc xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) lập trại dưỡng bệnh và mất (Lịch sử địa phương tỉnh Tây Ninh, tr. 11)[11].

Vòng Thành Bưng Rê 

Vào những tháng 11, 12/1861 tức những năm đầu Pháp chiếm đóng, các căn cứ như Thủ Dầu Một, Rạch Tre, Trảng Bàng, Tây Ninh đều bị tấn công. Sau này trước áp lực của quân Pháp mạnh hơn về vũ khí ông Võ Văn Nhâm cùng lực lượng nghĩa quân vừa đánh vừa rút qua các vùng: Tha La, Bà Sự, Núi Cậu… để bảo toàn lực lượng. 

Vào ngày 24 tháng 6 năm 1866, sau trận đánh chớp nhoáng vào Trảng Bàng của Trương Quyền, các nhóm nghĩa quân phối hợp hoạt động mạnh ở Gia Định - Chợ Lớn. Trong lúc đó, Trương Quyền đóng quân ở cầu An Hạ, bưng Trùm Lạc, Bàu Sim, Bà Giã, phối hợp với cánh quân Đặng Văn Duy, Võ Văn Nhâm, Pháp định mở cuộc tấn công lớn. Trương Quyền nhắm đánh không lại, buộc phải chia quân ra làm ba cánh, cánh xuống Bình Điền, cánh vượt sông Bến Nghé qua đất Thủ Dầu Một trong đó có quân ông Nhâm và cánh do Trương Quyền trực tiếp chỉ huy, kéo ngược lên Trảng Bàng an toàn.

Do áp lực ngày càng mạnh của quân Pháp, ông Võ Văn Nhâm cùng gia đình và nghĩa quân rút về vùng Bưng Rê làm nơi đóng quân (dọc sông Thị Tính phía Long Nguyên ngày nay). Tại Bưng Rê (Bến Cát),  ông tạo một Thành Đất hình chữ nhật có kích thước  300 x 260 (206) mét, chân rộng 5 mét được đắp bằng đất thịt pha cát, chân thành có chiều rộng khoảng 5m do thời gian đã quá lâu nên chiều cao giờ chỉ còn khoảng 60 - 70cm. Thành nằm cách bờ tả sông Thị Tính  khoảng 500m về hướng Tây, hướng Bắc cách dòng suối Hố Đá khoảng 1km, bên kia sông là bưng Hà Nù, thuộc xã Long Tân, huyện Dầu Tiếng ngày nay, hướng Đông và Nam dựa vào thế rừng già phủ kín, hiểm trở bạt ngàn với các loại cây gỗ quý như dầu, sao, vên vên, gõ…

Với địa thế này, thành đã tạo nên một vị trí án ngữ quan trọng chiến lược lúc bấy giờ. Ông Võ Văn Nhâm đã dùng lực lượng dân binh làm nòng cốt cho đắp thành đất này để làm nơi trú quân ẩn náu, tranh thủ chờ thời cơ quật khởi để chống lại quân Pháp mạnh hơn mình rất nhiều lần. Trong thành chứa khoảng 25 - 30 quân nghĩa dõng mà người dân lâu nay vẫn gọi là “Vòng Thành của ông hai Bụng” (do bụng ông to) hay “Vòng Thành ông Nhâm đánh Tây”. Đây chính là một trong những căn cứ địa sớm nhất Nam bộ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần đầu.

Với chu vi Thành Đất không phải là lớn, sự bố trí các cơ sở sinh hoạt bên trong, ăn ở, tập luyện cũng là đơn sơ. Ta có thể hình dung, có căn nhà công để làm nơi hội họp, bàn luận việc quân, nơi nhà bếp, nhà kho, nhà nghỉ... Cửa thành quay ra hướng có sông, suối để có thể dùng ghe vận chuyển người, lương thực. Trong cuộc điền dã 5, 6 năm trước, chúng tôi đã thu nhặt được các loại mảnh gốm của các loại lu, ghè, hủ, mái... dùng để đựng thức ăn, nước uống, gày mắm.

Ở đây ông Nhâm hướng dẫn quân nghĩa dõng nuôi trâu đàn vài trăm con và thả rong trên hai bờ sông Thị Tính, chủ yếu là bên hữu ngạn sông. Với đàn trâu này đã cung cấp thịt cho đội quân, cùng với thú rừng săn, bẫy được, cộng với việc cấy lúa trên ruộng, làm sa Hà Nù để hứng cá các loại, thức ăn phải nói là đầy đủ. Việc sản xuất tự túc này phải có phương châm bảo mật cách nào để khỏi lộ cơ sở Vòng Thành là việc cần nêu để nghiên cứu tiếp. Song, có một sự kiện quan trọng: cũng do việc bố trí người giữ đàn trâu mà chính tên này đã phản bội, trốn ra ngoài, móc nối với bọn Tây ở Thủ Dầu Một lên càn quét và bắt sống ông!

Đứng trước sức mạnh của quân địch, thủ lĩnh Võ Văn Nhâm không hề nao núng mà tự đặt mình vào vị trí chiến đấu và tiếp tục củng cố vòng thành rồi tiếp tục hoạt động với biệt danh mới - ông Hai Bụng.

Với một lực lượng nhỏ gọn được nhân dân chở che, ông Hai Bụng bố trí lực lượng khắp trên địa bàn, lúc ẩn lúc hiện và kéo dài 3 năm (1866-1868) làm cho địch lồng lộn, điên cuồng vì không diệt được Hai Bụng. Chúng liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, hăm dọa, dụ dỗ người thân và họ hàng của ông ở Bưng Rê làm cho mọi người hoảng sợ. Để tránh bị giặc theo dõi các người con và dòng họ của ông đã phải đổi lại là họ Nguyễn.

Việc ông bị bắt, theo gia phả họ Võ: Chính ông là người đã đưa vợ con sống chung trong thành vượt ra khỏi bờ thành để trốn trước, còn riêng ông trở vào cùng quân sĩ chiến đấu. Cuối cùng để đánh phá được vòng thành bọn địch đã phải sử dụng một tên tay sai phản bội chỉ điểm, tên này đã dẫn quân Pháp ở Thủ Dầu Một lên đánh úp vòng thành và ông bị bắt sống, bị giải về thành Săn Đá (từ chữ soldat của Pháp) ông bị tra tấn, hành hạ tàn nhẫn, để khai thác và dụ hàng. 

Với khí tiết kiên cường không chịu khuất phục trước kẻ thù, cuối cùng chúng mổ ruột thả xác trôi sông Bến Nghé, khúc sông Thủ, Bình Nhâm. Hai người em trai, thứ tư là ông Võ Văn Ngùy, thứ bảy là Võ Văn Cơ, với sự hướng dẫn của người anh thứ ba là ông Võ Văn Ngoan, đang làm thôn trưởng thôn Phước An, đem xác về kín đáo chôn ông Nhâm ở đồng mả Xóm Bến, nơi sau này chôn cất con cháu, hậu duệ các họ Võ, họ Tô... 

Hiện nay không xác định được cổng ra vào của vòng thành, bên trong trống trải cây cỏ mọc rải rác trên một vùng đất triền đồi, tiếp giáp với bưng biền ven sông, rừng chồi, cây dại như tràm, mua mọc lúp xúp, không có các loại cây to.  Đáng chú ý là trong khuôn viên thành và xung quanh thành trước đây nông dân đã nhặt được rất nhiều những vật dụng bằng sành, gốm bị vỡ và các vật dụng khác. 

Vào năm 1995, người cháu đời thứ 5 của ông Võ Văn Nhâm đã nhặt được một hiện vật bằng đồng có hình dáng như cái móc cân. Theo gia phả dòng họ Võ thì di tích này đã tồn tại được trên 150 năm. Hiện nay vòng Thành Đất họ Võ tuy qua thời gian hàng trăm năm những vẫn còn đó những dấu tích cũ. Võ Văn Nhâm là một thủ lĩnh nghĩa quân một lòng kiên trung trong thời kỳ đầu chống Pháp ở Nam bộ. Vòng Thành Đất được đắp nên không ngoài mục đích để phòng thủ chống lại quân Pháp, cùng căn cứ Núi Cậu đã tạo cho vùng đất Bưng Rê một giá trị lịch sử có thực. Vòng Thành Đất họ Võ đã được xếp hạng là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2941/QĐ-UB ngày 4-7-2005 của UBND tỉnh Bình Dương.

Thành phần tham gia kháng chiến 

Cuộc khởi nghĩa Trương Định có sự liên kết chặt chẽ với nhiều cuộc khởi nghĩa khác, như khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Trần Xuân Hòa, Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân ở Ba Giồng v.v... Thực tế này được Nguyễn Thông ghi lại như sau: Khi Trương Định đóng giữ Tân Hòa, hội mọi người để bàn định kế hoạch ... hào kiệt kéo đến như mây. Lực lượng nghĩa quân rất đông đảo, bao gồm nhiều thành phần khác nhau: 

- Binh lính đồn điền và nông dân ứng nghĩa chiếm số đông; Sử triều Nguyễn chép: “Phó quản cơ Gia Định là Trương Định... chiêu mộ những thủ dõng có nhiều người đi theo... Tri phủ Phước Tuy là Nguyễn Thành Ý, tùy phái là Phan Trung mỗi người đều mộ được 2 cơ, hợp cộng 4.000 người, lại đương tiếp tục mộ, kể ước tới hàng vạn”. Quân khởi nghĩa tiến công các huyện lỵ ờ Bà Rịa; 5.000 nghĩa quân tấn công quân địch ở Gò Đen (Cần Giuộc); 1.000 nghĩa quân đánh đồn Thuộc Nhiêu (gần Mỹ Tho).

- Trí thức khoa bảng ở Gò Công và các vùng lân cận, như các vị Cử nhân Bùi Tấn (khóa 1849), Cù Khắc Kiệm, Lý Duy Phan /Phiên (khóa 1847), Hà Mậu Đức (1855) v.v... các vị Tú tài Nguyễn Văn Trung, Huỳnh Văn Đạt, Bùi Văn Lý, Mai Phương Mỹ, Nguyễn Duy Thận, v.v...

- Thân sĩ, như Hồ Huân Nghiệp, v.v...

- Quan lại triều đình, như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Lưu Tấn Thiện, Nguyễn Tánh Thiện, Lê Quang Quyền, Đặng Văn Duy, Phạm Tiến v.v...

Trương Định trao cho viên cử nhân Bùi Tấn và Cù Khắc Kiệm, chuyên coi công việc của huyện Tân Thạnh, Cử nhân Lý Duy Phiên, Hà mậu Đức, Tú tài Nguyễn Văn Trung, chuyên biện công việc của hai phủ, huyện Tân An và Phú An, Tú tài Hoàng Văn Đạt, tri huyện Bùi văn Lý chuyên biện huyện Tân Long, Tri huyện Đặng Văn Duy, chuyên biện việc phủ huyện Tây Ninh và Quang Hóa. 

Vinh danh

Tại thời điểm đó Nho học vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội, nên chữ NGHĨA áp dụng cho việc chống Tây giành lấy  chủ quyền cho đất nước là thích hợp nhất vì:

Nghĩa:  Hợp với lẽ phải, đúng với đạo lý. 

Nghĩa sĩ: người hành động vì lẽ phải.

Nghĩa quân: quân đội lập nên vì chính nghĩa.

Trương Định làm việc nghĩa, hào kiệt bốn phương tụ họp đông đảo, liệu sẽ thành công chăng? Ông Hồ Huân Nghiệp trả lời rằng: Ông Trương Định làm việc nghĩa, không kể thành bại. Thành làm, mà bại cũng làm, bởi vì đây là việc đại nghĩa (Hỏi đáp về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I), Nhà xuất bản Trẻ, 2006, tr. 117).

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu (hay Đồ Chiểu, 1822 - 1888) sáng tác để ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc (Long An) do Bùi Quang Diệu làm thủ lĩnh vào năm 1861. 

Bùi Quang Diệu hay Bùi Quang Là (thường gọi là Quản Là, Đốc binh Là), (1820/1825 - 1877), người làng Mỹ Lệ, tổng Lộc Thành Trung, huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định (nay là xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước), ông vốn là Cai tổng huyện Phước Lộc. Khi thực dân Pháp xâm chiếm Gia Định ông đã cùng với Trương Định, Nguyễn Trung Trực tham gia bảo vệ Đại đồn Chí Hòa dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ thì Trương Định lui về Gò Công, Nguyễn Trung Trực về Tân An, riêng Bùi Quang Diệu lui về vùng đất quen thuộc của mình là Cần Giuộc, Cần Đước tập hợp nghĩa quân tiếp tục chiến đấu, hoạt động một thời gian khá dài trong phong trào võ trang chống Pháp cho đến kết thúc phong trào của Võ Duy Dương (1864 -1866). 

Tên gọi Quản Là là do ông nhận chức Quản cơ, có lẽ lúc tham gia hoạt động quân sự ở Đại đồn Chí Hòa, vào đêm Rằm tháng 11 năm Tân Dậu, tức16/12/1861, Bùi Quang Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở chợ Trường Bình, Cần Giuộc. Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní. Giặc Pháp phải dùng đại bác từ tàu chiến đậu trên sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn. Phía nghĩa quân hy sinh 15 người (có tài liệu ghi là 27 người). 

Có thể nói trong hai trận đánh nổi tiếng này đều có sự tham gia đông đảo và dũng cảm của những người nông dân Cần Đước. Cảm kích trước tinh thần quả cảm của những người “dân ấp dân lân” trong trận đánh này, bằng ngòi bút và tâm hồn trung nghĩa, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để đọc trong buổi lễ truy điệu tử sĩ theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang.

Đặt tên đường

Ngày nay ngoài các danh hiệu liệt sĩ, anh hùng có việc đặt tên đường để vinh danh: 

- Long An đã đặt tên đường Cù Khắc Kiệm ở phường Khánh Hậu, thành phố Tân An.

- TP.HCM có tên đường Bùi quang Là ở phường 12, Gò Vấp…

Có nên chăng việc nghiên cứu đặt tên đường cho ông Võ Văn Nhâm tại khu gần Vòng thành tỉnh Bình Dương hay gần tổ quán Bà Giã?

Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của chánh quyền địa phương trong việc sưu tầm thông tin, tư liệu về hành trạng của cụ Võ Văn Nhâm. Vì đây là một sự kiện đáng được ghi vào “Lịch sử địa phương” trong thời kỳ chống Pháp giai đoạn đầu, bảo vệ sự toàn vẹn, độc lập của đất nước. Sau đó, có thể chánh thức ghi vào địa chí của địa phương mình để các thế hệ sau này noi theo./.

………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Hành trạng cụ Võ Văn Nhâm (Võ Ngọc An (20/7/2007)

- Võ Văn Nhâm với vòng thành đất trong thời kỳ đầu chống Pháp ở Nam bộ (Hội khoa học lịch sử Bình dương, Đặng Văn Hiền, 25/7/2012).

- Trường thi Hương Gia Định từ măm 1813 Đến Năm 1858, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử Trường Đại Học Vinh 2012, Nguyễn Thị Quỳnh Trâm, tr. 77).

- Tập san Sử địa số 3 - i - NXB Khai Trí, 1966.

- Lịch sử Việt Nam, Tập 6 từ năm 1858 đến năm 1896, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, 2017, tr.126-132.

- Hỏi đáp về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I), Nhà xuất bản Trẻ, 2006, tr.117.

LÂM HOÀI PHƯƠNG