Trang chủ > Nguyễn Thị Ráo - Người phụ nữ anh hùng tiên phong “xé rào” giải cứu lương thực miền Nam

Nguyễn Thị Ráo - Người phụ nữ anh hùng tiên phong “xé rào” giải cứu lương thực miền Nam

07/09/2023 10:27:26

Tham luận của Võ Thị Thùy Trang và Nguyễn Thái Phi Ân viết cho hội thảo “Di sản mẹ Âu Cơ với truyền thống giáo dục gia đình, nối truyền và bảo tồn văn hóa dân tộc” tổ chức lúc 8h30 sáng 28/4/2023 tại hội trường Đại học KHXH&NV TP.HCM.

Tóm tắt nội dung: Bà Ba Thi là một trong những đồng chí sớm giác ngộ và tham gia đấu tranh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hòa bình lập lại sau ngày 30/04/1975, bà là một trong những người đi đầu trong việc “xé rào” đổi mới để đưa nước ta thoát khỏi tình hình khó khăn trên nhiều lĩnh vực. Chính những thành tựu của bà đã là tiền đề to lớn đưa nước ta hội nhập và ngày càng phát triển sâu rộng. Bà chính là tấm gương sáng của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và xứng đáng với 8 chữ vàng của bác Hồ “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh vào thăm bà Ba Thi và tham quan mô hình đổi mới ở Công ty Lương thực TP.HCM năm 1985 - Ảnh: tuoitre.vn

Sơ lược tiểu sử của Nguyễn Thị Ráo

Bà Nguyễn Thị Ráo, tên thường dùng là Chín Ráo, bí danh là Ba Thi, sinh ngày 11/8/1922, tại làng Long Thạnh, tổng Bình Khánh Thượng, quận Càng Long nay là xã Nhị Long huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. 

Năm 1940, bà được Chi bộ xã giác ngộ rồi giao nhiệm vụ liên lạc giữa các xã Nhị Long, An Trường, Mỹ Trường trong vai cô hàng xáo (mua bán gạo). Sự năng nổ, tháo vát và mưu trí của cô giao liên trẻ đã tạo được niềm tin ở Chi bộ. Năm 1943, bà được giao thêm nhiệm vụ Tổ trưởng Nông hội đỏ xã.

Để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám, bà được Huyện ủy Càng Long tin tưởng giao nhiệm vụ vận động quần chúng thị trấn và các vùng phụ cận tích cực nổi dậy. Khi chính quyền về tay nhân dân, ngày 20/9/1945 bà vinh dự được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị Phụ nữ toàn huyện, bà được tín nhiệm bầu vào cương vị Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc huyện Càng Long, đồng thời còn là Ủy viên của huyện bộ Việt Minh.

Năm 1946, đáp ứng yêu cầu của công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Huyện ủy Càng Long được củng cố lại. Bà được đề bạt vị trí Huyện ủy viên, phụ trách công tác dân vận kiêm Bí thư Đảng Đoàn Hội Phụ nữ cứu quốc huyện. Năm 1948, đồng chí Nguyễn Thị Ráo được rút về làm Phó Hội trưởng rồi Hội trưởng kiêm Bí thư Đảng Đoàn Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Trà Vinh.

Năm 1949, tỉnh Vĩnh Trà được thành lập từ sự sáp nhập hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, bà được cử đi học lớp Trường Chinh khóa III, tại miền Đông Nam Bộ. Tại đây, năm 1953, bà lập gia đình với đồng chí Nguyễn Trọng Tuyển - Tỉnh ủ`y viên phụ trách tuyên huấn tỉnh Gia Định. Từ đây bà có bí danh Ba Thi (Thi Tuyển). Sau khi hoàn thành lớp Trường Chinh, Xứ ủy đã điều bà về làm Ủy viên Đảng Đoàn Hội Phụ nữ Cứu quốc Gia Định - Ninh (lúc này hai tỉnh Gia Định và Tây Ninh sáp nhập làm một). Được sự chở che, đùm bọc của bà con lao động nghèo vùng Bàn Cờ, Vườn Chuối, bà thay chồng nuôi con thơ dại đồng thời vận động, tập hợp, tổ chức chị em phụ nữ, lãnh đạo chị em đấu tranh trực diện với quân thù.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ về vấn đề Đông Dương được thông qua, bà Ba Thi được Đảng phân công ở lại miền Nam, tiếp tục bám địa bàn Sài Gòn - Gia Định vận động quần chúng kiên quyết đấu tranh đòi địch nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, chuẩn bị Hiệp thương thống nhất đất nước. Khi địch trở mặt, khủng bố gắt gao các lực lượng cách mạng, đồng chí Ba Thi vẫn kiên cường đứng vững giữa nội thành trong sự thương yêu, che chở của quần chúng. Trong giai đoạn này, bà đảm nhiệm nhiều cương vị khác như Phó Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định; Quyền Bí thư Quận ủy Quận Ba, Ủy viên Ban Cán sự Cánh I phụ trách Tuyên huấn các Quận Gò Vấp, Bình Hòa, Quận Nhì, Quận Ba, Phú Nhuận.

Năm 1961, đồng chí Ba Thi được bầu vào Ban chấp hành Hội Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Năm 1964, Tại Đại hội Phụ nữ toàn miền, bà được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam và được Ban chấp hành cử vào Ban thường trực Trung ương hội. Từ đó đến ngày đất nước được giải phóng, đồng chí Ba Thi có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp vận động phụ nữ miền Nam đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Tháng 3/1969, bà tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc. Đây là đại biểu phụ nữ duy nhất của đoàn. Ngày 5/3/1969 trở thành ngày trọng đại, khó có thể quên được trong cuộc đời bà - được gặp Bác Hồ và được ngồi bên Bác, báo cáo với Bác về những phong trào đấu tranh kiên cường, bất khuất của phụ nữ Việt Nam.

Các anh hùng, dũng sĩ miền Nam ra thăm Bác Hồ năm 1969. Bà Ba Thi bìa trái - Ảnh tư liệu

Sau ngày 30/4/1975, bà tiếp tục công tác tại Trung ương Hội Phụ nữ rồi sau đó được điều về làm Phó Giám đốc Sở Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh. Đây thực sự là một trận địa mới với đầy đủ ý nghĩa của nó với chức năng đảm bảo không để một người dân nào trong gần 4 triệu đồng bào thành phố phải đói, trong hoàn cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh. Người phụ nữ hàng xáo năm xưa với trình độ học vấn lớp 4 trường làng đã lao vào trận địa mới với tấm lòng nhân hậu và tính nhanh nhạy đến bất ngờ cả với chính những người đã tin tưởng giao nhiệm vụ cho bà.

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa IV) ra đời đã mở ra một hướng đi mới trong lĩnh vực lưu thông phân phối. Vận dụng Nghị quyết này vào thực tiễn, Thành ủy và UBND Thành phố Hồ Chí Minh quyết định thành lập Công ty Kinh doanh Lương thực thành phố. Bà được bổ nhiệm làm Giám đốc vào tháng 7/1980. Thành phần nhân sự của công ty bắt đầu từ một tổ thu mua gồm 6 cán bộ, công nhân viên (kể cả lái xe) có nhiệm vụ liên hệ với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long để mua gạo về bán lại cho hơn 3,5 triệu người dân thành phố và một lượng không nhỏ khách vãng lai với giá kinh doanh không bù lỗ nhưng cũng không nhằm thu lãi cao.

Ổn định và làm chủ thị trường lương thực ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm 1980 không những là một thành tích hết sức có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng. Điều này đã giúp củng cố niềm tin của quần chúng ở một địa bàn rất nhạy cảm này đối với Đảng và Nhà nước . Chính do vậy, để ghi nhận sự đóng góp của nữ Giám đốc Ba Thi , năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã tặng thưởng bà Huân chương Lao động hạng Nhì. Tiếp đó, năm 1984 bà lại được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất. Và năm sau, 1985, bà là một trong số không nhiều phụ nữ Việt Nam được tuyên dương Anh hùng Lao động.

Không dừng lại ở việc kinh doanh mặt hàng chiến lược là lúa gạo, từ năm 1985, Công ty kinh doanh Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư dây chuyền sản xuất mì ăn liền Colusa, rồi sau đó là nhà máy bánh ngọt Đồng Khánh. Những mặt hàng này nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, góp phần tăng nhanh doanh số của công ty.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - năm 1986, với chủ trương đổi mới đất nước một cách toàn diện, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, giúp Công ty một động lực mới để phát triển mạnh mẽ. Hạt gạo Việt Nam đã không những đảm bảo được nhu cầu trong nước mà bắt đầu có lượng hàng hóa dôi ra ngày càng lớn. Một doanh nghiệp bắt tay vào lĩnh vực xuất khẩu gạo, trong đó Công ty của Ba Thi là đơn vị tiên phong. Từ số ngoại tệ thu được do xuất khẩu lương thực, Công ty đã nhập về một số thiết bị, công nghệ xay xát hiện đại, giúp hạt gạo Việt Nam có điều kiện vươn xa hơn, bước vào những thị trường khó tính nhất với một tư thế cạnh tranh tương đối bình đẳng hơn.

Đau lòng trước thực tế hàng năm lượng dầu thô từ lòng đất Việt Nam được xuất thẳng mà không qua chế biến làm mất đi một lượng ngoại tệ đáng kể, bà Ba Thi đề xuất với các cơ quan chức năng ở thành phố và Trung ương đứng ra đầu tư nhà mày chế biến dầu khí mini Sài Gòn Petro ở Cát Lái với công suất 40.000 tấn/1 năm. Sài Gòn Petro ra đời, tuy với quy mô khá khiêm tốn, nhưng hoạt động hiệu quả của nó đã chứng minh năng lực tiếp thu và làm chủ của người Việt Nam trên lĩnh vực công nghiệp hiện đại và khá mới lạ này.

Những năm đầu 1990, Công ty kinh doanh Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một mô hình kinh doanh đa chức năng mang tính tư bản Nhà nước. Từ chỗ kinh doanh lương thực thu mua gom và bán cấp phát, Công ty đã vươn ra lĩnh vực chế biến xuất khẩu nông sản; công nghiệp chế biến dầu khí và tín dụng ngân hàng. Thương phẩm của công ty có mặt không chỉ ở khu vực thị trường truyền thống là Liên Xô và các nước Đông Âu mà đã tạo dựng được uy tín ở các nước đang phát triển cũng như bước đầu cạnh tranh được trên thị trường khó tính Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuần báo  ASIA WEEK đã bình chọn Giám đốc Nguyễn Thị Ráo là nhà kinh doanh thành đạt nhất châu Á trong năm 1991 và gọi bà là “nhà nữ tỷ phú” với doanh số hành trăm triệu USD mỗi năm.

Ngoài danh hiệu Anh hùng Lao động và hai huân chương Lao động được tặng thưởng năm 1983 và 1984, Đồng chí Nguyễn Thị Ráo còn được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:

- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

- Huân chương Độc lập hạng nhất.

- Huân chương Giải phóng hạng nhất.

- Huân chương Quyết thắng hạng nhất.

- Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.

Bối cảnh của Sài Gòn sau ngày giải phóng

Sau ngày giải phóng, thành phố Sài Gòn có khoảng 4 triệu dân. Một, hai năm sau đó, khoảng nửa triệu người được đưa đi vùng kinh tế mới. Nhưng không bao lâu sau đó thì phần lớn số dân này không quen với sản xuất nông nghiệp, lại trở về một cách bán hợp pháp.

Trước ngày giải phóng, lương thực của thành phố hoàn toàn do thị trường tự do cung cấp. Có những đường dây hình thành từ hàng thế kỷ gồm các chủ chành, chủ vựa gạo ở miền Tây. Họ mua gom lúa của các điền chủ, xay xát, vận chuyển lên thành phố theo một mạng lưới được đặt tại các chợ. Những chợ bán gạo chủ yếu ở thành phố như chợ Trần Chánh Chiếu có hơn bốn trăm sạp gạo, chợ Cầu Muối, chợ An Lạc gần một trăm sạp. Các chợ khác không chuyên bán gạo thì cũng có vài chục sạp bán gạo. Những sạp bán gạo này đều là những cửa hàng bán lẻ, chân rết của những nhà kinh doanh lớn về lúa gạo ở miền Nam. Hệ thống này hoàn toàn có khả năng chi phối thị trường. Dân cũng quen ăn gạo theo giá thị trường.

Trung ương Cục đã có kế hoạch chuẩn bị lương thực cho thành phố từ vài tháng trước khi giải phóng, vì tính rằng sau ngày giải phóng những sự đảo lộn trong đời sống sẽ làm cho mạng lưới phân phối lương thực bị ách tắc. Hàng hóa khác thì có thể tạm thời thiếu, nhưng giải phóng xong mà để cho dân thành phố thiếu gạo thì không thể được. Tuy nhiên, cơ chế mới đã tự đặt ra cho mình những gánh nặng không thể mang vác nổi. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24, tháng 9 năm 1975, đã đặt vấn đề cải tạo tư bản tư doanh ở miền Nam, độc quyền khâu bán buôn.

Điều đó có nghĩa là phải xóa bỏ toàn bộ khâu bán buôn lúa gạo ở miền Nam, thay bằng mậu dịch quốc doanh với các công ty lương thực. Như vậy, Nhà nước phải lãnh nhiệm vụ cung cấp gạo hằng ngày cho 4 triệu dân thành phố. Nếu tính trung bình, mỗi người dân được cung cấp với mức 9 kg/nhân khẩu/tháng, thì riêng cho thành phố, mỗi năm cần 530.000 tấn gạo. Lấy đâu ra? Trong khi mức huy động lương thực của Nhà nước trên toàn quốc cũng chỉ hơn một triệu tấn/năm. Riêng của miền Nam, mức huy động thường chỉ dưới một triệu tấn. Cụ thể: 1976 là 1,9 triệu tấn, năm 1977: 0,99 triệu tấn, năm 1978: 0,71 triệu tấn, năm 1979: 0,64 triệu tấn.(1) 

Như vậy, xét riêng về số lượng gạo cần thiết để cung cấp cho nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà nước không có khả năng cung cấp. Nếu xét về giá, Nhà nước quy định là giá bán cung cấp 5 hào/kg, trong khi đó giá thực tế trên thị trường ngày càng biến động, từ 1 đồng đến 1,5 đồng/kg gạo năm 1977 đã lên 2 đồng (1978), tới 5 đồng/kg (1979)...(2). Nếu tiếp tục bán giá 5 hào/kg thì Nhà nước không những không đủ lượng gạo để bán ra mà còn chịu lỗ tới mức không có ngân sách nào bù nổi. Đồng thời, nếu bán cho dân theo giá đó, thì người thực tế ăn gạo chỉ được mua một phần, còn một phần rất lớn sẽ do tư thương vơ vét để bán ra ngoài.

Nếu phân biệt các đối tượng được mua thì ai được quyền hưởng giá cung cấp? Nếu chỉ xét riêng số người trong bộ máy Nhà nước, kể cả những nhân viên cũ được thâu nạp, thì con số này cũng tăng lên tới mức đáng sợ. Lý do là bởi sau tiếp quản, riêng trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đã xóa bỏ hệ thống các trường tư thục, công lập hóa trường học. Như vậy, Nhà nước mặc nhiên đã đưa mấy chục vạn giáo viên của các trường tư thục cũ vào biên chế của ngành giáo dục. Những người đó đương nhiên cũng phải được mua gạo giá 5 hào/kg gạo! Một vấn đề nữa là phải bố trí những cơ sở, những điểm bán hàng, nhân viên bán hàng và dĩ nhiên họ cũng ở trong biên chế Nhà nước. Sau giải phóng, Bộ Nội thương đã điều hơn 3.000 mậu dịch viên vào thành phố, mở thêm hơn 1.000 cửa hàng bán gạo lẻ cho dân.

Từ năm 1978, giá 1 kg gạo trên thị trường đã lên hơn 1 đồng, rồi 2 đồng, thì giá gạo 5 hào của các cửa hàng mậu dịch, gọi là "gạo tổ", trở thành điều hấp dẫn, tuy chất lượng rất kém. Người ta xếp hàng có khi nửa ngày trời để mua mấy cân gạo. Những gia đình có nhiều tiền, có thể ăn gạo ngon trên thị trường tự do, vẫn cho người giúp việc ra xếp hàng để mua "đủ tiêu chuẩn" về cho heo, gà ăn hoặc bán ra ngoài lấy lời. Cũng từ thời kỳ này, người dân bắt đầu gọi XHCN là xếp hàng cả ngày gọi cách bán của quốc doanh là "bán như cho".

Như vậy, một mặt Nhà nước yêu cầu xóa bỏ thị trường tự do, độc quyền kinh doanh lương thực nhưng mặt khác, trong thực tế, chính Nhà nước đã vô tình thực thi những biện pháp củng cố thêm sự phát triển của thị trường tự do. Trong khi Nhà nước vẫn "bán như cho", thì việc Nhà nước mua lương thực của dân với giá rẻ - mà người dân gọi là "mua như giựt" - càng ngày càng khó khăn. Những năm 1977, 1978, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bị lũ lụt. Sản lượng lượng thực giảm sút. Mức huy động càng giảm sút mạnh hơn.

Tỷ lệ huy động trước đây khoảng trên dưới 20% thì bây giờ tụt xuống còn trên 10%.(3) Sự giảm sút đó không chỉ do sản lượng kém hằn bởi lũ lụt và chiến sự ở miền Tây, mà còn do cơ chế "mua như giựt" không được nông dân đồng tình. Theo cơ chế này, Nhà nước bán vật tư cho nông dân theo số lượng và giá cố định, rồi thu mua lương thực của nông dân với số lượng và giá tương ứng với số vật tư đã cung cấp.

Nghĩa vụ đó là hai chiều. Nhưng từ năm 1977-1978, do khủng hoảng thiếu. Nhà nước không đủ vật tư cung ứng cho nông dân nữa thì nông dân đương nhiên cũng không thể bán cho Nhà nước theo giá "bán như cho". Thậm chí nhiều khi Nhà nước không có tiền thì ngay cả khi đã "bán như cho" rồi cũng không được nhận tiền ngay, mà chỉ được nhận một tờ giấy ghi nợ thôi.

Như vậy, cuộc cải tạo và việc áp đặt cơ chế quan liêu bao cấp vào miền Nam đã tự đặt cho Nhà nước thêm nhiều khó khăn, với những mâu thuẫn không thể giải quyết được. Những người chịu trách nhiệm ở thành phố đứng trước một bài toán nan giải là: Phải chấp hành chủ trương của Trung ương là tiến hành cải tạo, xóa bỏ thị trường tự do, nắm trọn khâu bán buôn. Nhưng lương thực không có vì không huy động được từ dân. Việc huy động lương thực của các tỉnh đồng bằng là việc của Trung ương, không phải việc của thành phố.

Thành phố không được phép trực tiếp mua gạo ở các tỉnh. Mà nếu có được mua thì với giá "mua như giựt" cũng không thể nào mua được. Nhưng, với trách nhiệm là những người được Trung ương giao cho lãnh đạo một thành phố lớn hàng đầu đất nước thì không thể để cho người dân thành phố thiếu ăn. Một thành phố có lịch sử 300 năm, chưa bao giờ người dân không có gạo để ăn, mà bây giờ, sau giải phóng lại được "giải phóng" luôn khỏi việc ăn gạo, thay vào là củ sắn, khoai lang, bột mì, thậm chí hạt bo bo, là thứ lương thực mà Liên Xô viện trợ cho Việt Nam để chăn nuôi gia súc!

Là những người đã từng đổ xương máu để giải phóng và sau đó lãnh đạo thành phố, các cán bộ rất xót xa, trăn trở. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt có lẽ là người nhức nhối nhất, vì ông cũng là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Đảng, trước dân. Ông đã tuyên bố với can, ngành liên quan đến vấn đề này: "Không thể để một người dân nào của Thành phố chết đói"(4).

Nhưng làm thế nào để dân không thiếu đói? Gạo không được cung cấp về. Tiền thì không có. Nếu có cũng không được phép đi mua. Mua được thì phải bán theo giá cung cấp do Nhà nước quy định. Thế thì càng chết. Nếu dân không chết thì ngân sách cũng chết vì thiếu hụt. Người đi thu mua cũng chết vì vi phạm quy chế. Biết làm sao đây?

Cả tập thể Thành ủy và những bộ phận có liên quan, trước hết là cơ quan lương thực, cùng suy nghĩ, trăn trở. Bà Ba Thi vốn là người năng nổ, xông xáo, luôn luôn có tài và có gan tìm ra những giải pháp đột phá như cá tính của bà từ thời con gái cho đến suốt thời kỳ hoạt động chống Mỹ. Là người đã từng lăn lộn khắp đồng bằng sông Cửu Long, bà biết rất rõ thị trường gạo ở đây, vấn đề không phải là thiếu, mà là không mua được.

Vậy phải tìm cách nào để mua? Bà đề xuất với Bí thư Thành ủy: "Đi về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua gạo trên thị trường, đem về phục vụ đồng bào Thành phố"(5). Ý kiến này cũng đã xuất hiện trong đầu của nhiều cán bộ có trách nhiệm lúc đó. Ý hợp tâm đầu, từ những ý tưởng đột phá cá nhân đã hình thành một ý kiến của tập thể.

Bà Ba Thi và chính sách “xé rào” 

Để giải quyết nhưng vấn đề khó khăn theo cơ chế nhà nước, bà Ba Thi phải lấy danh nghĩa "cá nhân" chứ không thể lấy danh nghĩa Sở Lương thực để mua gạo theo giá thỏa thuận. Nhưng cá nhân thì vấn đề tài chính không thể ứng vốn, ngân hàng cũng không thể cho vay hoặc chi tiền mặt. Việc xin mua ở tỉnh và việc vận chuyển về Thành phố cũng không phải dễ dàng. Sau nhiều cuộc họp bàn đã đưa đến thống nhất vướng mắc chính về vấn đề lương thực ở Sài Gòn là do cơ chế vì vậy chỉ còn cách "xé rào".

Sau khi nhận được sự đồng tình “xé rào” của đồng chí Võ Văn Kiệt. Tài chính xuất tiền vốn chi cho bà Ba Thi mua gạo, ngân hàng xuất tiền mặt theo lệnh chi của tài chính và cho giấy đi tỉnh. Bà đã liên hệ với địa phương để mua gạo và xin phép chở về Thành phố tổ chức bán thu tiền về và quay vòng tiếp theo. Để đảm bảo an toàn cho việc "xé rào" thì tài chánh phải cử cán bộ đi cùng làm kế toán, ngân hàng cử cán bộ giữ và chi tiền mặt, còn Bà Ba Thi phụ trách chung, gọi là Tổ trưởng "Tổ thu mua lúa gạo" (có người gọi đùa là "Tổ buôn lậu gạo"). 

Bà từng nói: "Làm cách này thì chúng tôi làm được, nhưng nếu Trung ương biết là đi tù đó.". Đáp lại Bí thư thành ủy Võ Văn Kiệt (anh Sáu Dân) vừa nói vừa cười: “Nếu do việc này mà anh chị đi tù thì tôi sẽ mang cơm nuôi..."(6)

Một chí khí của một phụ người phụ nữ kiên cường bất khuất luôn hết lòng cho dân. Chỉ cần đời sống nhân dân được tốt hơn, giải quyết được nạn khan hiếm lương thực cho Sài Gòn, dù những đổi mới của bà lúc này không hợp pháp và có thể khép bà vào tội chống đối chính quyền và có thể chấp nhận bị bắt tù tội. Nhưng với một tấm lòng nghĩa hiệp vì dân vì nước mà mà chấp nhận tất cả. Bà Ba Thi đã thực hiện  nguyên lý: “Lo cho dân là quan trọng nhất, thể chế có thể thay đổi tuỳ thời, nhưng dân là vạn đại”. Ở đây một lần nữa, hào khí một thời kiên cường trong kháng chiến chống Mỹ lại tái hiện trong những chiến sĩ cộng sản.

Trong quá trình lập tổ thu mua gạo với những điều kiện thuận lợi đầu tiên khi Bà Ba Thi vốn quen biết hầu hết cán bộ lãnh đạo của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tên tuổi và thành tích của bà có sức thuyết phục mạnh hơn bất cứ loại giấy giới thiệu của bất cứ cấp nào. Đổi hàng là làm khác với cơ chế giá chỉ đạo của Nhà nước. Thành phố sẽ chuẩn bị một số hàng. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có những nguồn cung cấp hàng nhưng có tỉnh thừa xi măng nhưng thiếu sợi.

Có tỉnh thừa sắt thép nhưng thiếu phân. Bà Ba Thi liên lạc với các tỉnh để nắm các nguồn hàng dư thừa đó, đổi hàng khác cho họ, rồi lấy hàng đổi thóc cho nông dân. Cơ chế mua Giai đoạn đầu, "Tổ thu mua lúa gạo" dùng tiền tạm ứng của ngân sách để mua lúa, rồi sử dụng ghe thuyền và xe vận tải chở thóc về Thành phố. Thời gian này, vẫn còn quá nhiều trạm gác trên đường đi. Để vượt qua cảnh ngăn sông cấm chợ, bà Ba Thi đã từng phải nhờ đến quân đội, dùng xe của quân đội để chở lương thực về. Bộ đội lái xe, xe mang biển đỏ, có súng đi kèm. Nhờ đó, không có một trạm gác nào dám chặn. 

Giai đoạn cuối năm 1979, xuất hiện những khó khăn khi việc dùng tiền mua hàng không dễ. Người dân thiếu hàng hóa công nghiệp như: xăng dầu, vải, quần áo, thuốc uống... Công tác xin cấp hàng hóa công nghiệp khó khăn. Lúa nhiều, nhưng mua không được, bán không được. Những vấn đề mới được đặt ra. Các tổ buôn đã năng động đưa ra các hướng giải quyết mới đó là không đi mua lúa gạo bằng tiền mà thay vào đó nông thôn, cần dầu lửa thắp đèn, cần vải để may quần áo đi làm ruộng, cần thuốc uống trị bệnh lúc ốm đau...

Cầm xấp tiền vẫn không thể mua được thứ mình thiếu. Đặc biệt, các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau là những nơi rất thiếu hàng công nghiệp trong khi lại thừa lúa, nên nông dân đem thóc đến đổi hàng rất nhiều. Khi có lũ lụt xảy ra ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nông dân Hậu Giang, Đồng Tháp, Cửu Long, An Giang thiếu giống để cấy lại. Bà Ba Thi xin ý kiến Thành ủy, chạy tìm mua lúa tốt để làm giống về đổi cho bà con, khi đến vụ gặt họ trả bằng lúa.

An Giang đang cần xi măng và sắt thép để xây dựng cầu đường trong các huyện Châu Phú và Phú Tân, bà Ba Thi tìm kiếm đủ số vật tư đó thông qua những bạn bè ở các tỉnh, các ngành, các bộ, để giúp đỡ An Giang. "Tổ thu mua" An Giang trả bằng lúa, nhờ tỉnh xay, rồi chở về thành phố. 

Trong cơ chế mua này, cả hai phía đều quy đổi mặt hàng của mình ra giá thị trường. Giá thị trường ở đây là giá mà cả hai phía đều thấy không bị lỗ, chứ không phải là giá đầu cơ của thương nhân ở địa phương. Thí dụ, giá xăng dầu, vải được tính ở mức giá thị trường tại Thành phố Hồ Chí Minh cộng phí chuyên chở và các chi phí quản lý.

Tổng cộng lại tất nhiên là thấp hơn nhiều so với giá của thương nhân bán trên thị trường tự do tại miền Tây. Vì thế, người nông dân sẵn sàng đổi thóc. Cơ chế này tưởng là cơ chế của thị trường tự do, nhưng thực tế lại góp phần dẹp bớt những hoạt động đầu cơ trên thị trường tự do. 

Cơ chế bán 

Gạo được "Tổ thu mua lúa gạo" chở về Thành phố, chủ yếu nhằm cung cấp cho những người không thuộc diện được Nhà nước bán gạo theo giá cung cấp nhưng giá “Tổ”  cao gấp 14 lần so với giá cung cấp. Nhưng với giá này đã thấp hơn rất nhiều giá gạo đầu cơ trên chợ gạo tư thương. Nó giải quyết được vấn đề lương thực và người dân thành phố sẵn sàng chấp nhận giá này, vì nó hợp lý. Nhưng với giá buôn nông sản này trái với quy định của nhà nước, đi ngược với nguyên tắc hình thái XHCN. 

Chính sách của nhà nước lúc bấy giờ xa rời thực tiễn kinh tế, chỉ lấy những nguyên lý sách vở về giá cả làm nền tảng, không biết rằng người dân, bao gồm cả người làm ra gạo và người ăn gạo đang phải sống như thế nào... Bên cạnh đó những tư thương đang hoạt động mạnh mẽ ở Sài Gòn và khắp các tỉnh miền Tây. Những người này mua và bán có tính chất đầu cơ. Họ đục khoét nguồn hàng của Nhà nước bằng những thủ đoạn phi pháp, đưa về nông thôn bán giá cao cho nông dân.

Họ đi khắp các kênh rạch để đổi hàng lấy lúa với cơ chế cắt cổ. Người nông dân đang cần phân, cần xăng dầu, cần vải vóc, đường sữa, thuốc lá... nên sẵn sàng bán lúa rẻ hơn mức giá thị trường. Như vậy hoạt động của "Tổ thu mua lúa gạo" không chỉ gây khó chịu đối với những quan điểm coi xã tắc vi quí, mà còn gây ra khó khăn cho những hoạt động đầu cơ của tư thương.

Vì thế, tổ này cũng bị thị trường tự do căm thù. Đứng trước những khó khăn lớn như thế mà bà với nhân cách, bản lĩnh và hành động mình bà vẫn có sức đối với địa phương, đối với Thành phố Hồ Chí Minh mà đối với cả Trung ương. Ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm này, người dân coi bà là vị cứu tinh. 

Ở Trung ương, có hai luồng thông tin khác nhau. Một luồng có tính chất truyền thống, cũng giống như bản báo cáo của Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá, cho rằng: "bà Ba Thi đã đi với tư thương rồi", "Tổ thu mua lúa gạo thực chất là một tổ chức cắm cờ cách mạng để buôn lậu tập thể", "bà Ba Thi ngày xưa đánh Mỹ giỏi, bây giờ đánh vào chúng ta cũng giỏi"(7)...

Một luồng thông tin khác ngày càng có tính thuyết phục hơn là: Trong khi mô hình kinh tế cũ đã ách tắc và ngày càng gặp khó khăn, cần phải tìm những hướng giải quyết khác. Khi đối diện với Trung ương bằng sự kiên định, kế hoạch chi tiết của mình đã thuyết phục được Trung ương. Đã có những cuộc bàn về những ách tắc trong cơ chế và cuối cùng, đi đến một nghị quyết rất quan trọng mà nội dung chính là: "Bung ra", "cởi trói cho sản xuất".

Trong quyết định này, hẳn có một phần đóng góp nào đó của những người tả xung hữu đột như bà Ba Thi. "Công ty đã đưa ra một bài học có giá trị là: Thế nào là chủ đạo và con đường để quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Phải thông qua kinh doanh trên cơ sở kinh tế hành hóa và sử dụng các biện pháp các đòn bẩy kinh tế, chống lối độc quyền bàng biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh từ trên xuống."(8) 

Sang năm 1980 Việt Nam lúc này đã tham gia khối SEV vì vậy cơ chế nhà nước ta phải được đổi mới để hợp với kinh tế thị trường lúc bấy giờ. "Tổ thu mua lúa gạo" đã góp phần đem đến một phương thức mới, một giải pháp mới trong cơ chế kinh tế của cả nước. 

Các kết quả hoạt động của Công ty Kinh doanh Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh là sự kiểm nghiệm của thực tế chứng minh rằng, những lo lắng kể trên là không có căn cứ. Ngược lại, đi vào cơ chế thị trường, công ty tiết kiệm được cho Nhà nước cả về lương thực lẫn quỹ lương. Ngoài ra, còn tạo thêm nguồn thu cho ngân sách.

Nhà nước không phải bù lỗ trong việc cung cấp lương thực cho một triệu rưỡi người, tức một nửa số dân thành phố. Hơn thế nữa, Nhà nước còn được công ty nộp vào ngân sách hàng trăm triệu đồng: Năm 1981 là 600 triệu, năm 1982 là 800 triệu, năm 1983 là hơn một tỷ đồng, năm 1984 tới gần hai tỷ đồng. Những con số này là bằng chứng hùng hồn hơn mọi lý lẽ trích dẫn trong các sách giáo khoa về cái gọi là "những tác dụng tai hại của cơ chế thị trường"(9).

Mô hình kinh doanh của Công ty Lương thực Thành Phố Hồ Chí Minh là một mũi nhọn đột phá đầu tiên vào cơ chế quan liêu bao cấp như một sự tìm tòi mở lối kể chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp hàng hóa XHCN.

Cũng vào dịp này, tờ báo Time nổi tiếng của Mỹ, trong bài "Việt Nam đã mở cửa" số ra ngày 01/02/1988, đã viết: "Bà Nguyễn Thị Ráo tức bà Ba Thi là một trong những điển hình ngoạn mục nhất của sinh lực kinh tế đang nảy nở tại Việt Nam. Ở tuổi 65, vốn đã nổi tiếng là một chiến sĩ của bưng biền bởi tính bộc trực, trí thông minh là sự nhạy cảm, bà hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lương thực không tránh khỏi sự tức tối của một số quan chức ở Trung ương. Họ đã nghi ngờ về sự hoạt động chệch hướng của bà. Nhưng đến nay, lúc tôi tới nơi thì bà đang đứng trước một tấm bản đồ to lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, trên đó chi chít những bóng điện đánh dấu những địa điểm cung cấp gạo, không khác gì bản đồ mà một vị tướng đã sử dụng trong những chiến dịch quân sự. Chỉ khác là ở đó, không phải là những điểm đụng đầu với địch, mà là những điểm bà xây dựng để phục vụ những người mua gạo. Năng lực kiến thức, lòng quả cảm và khả năng quản lý hiếm có là những đức tính đặc biệt ở người phụ nữ này...".

Cuối cùng, để thay kết luận, người viết bổ sung thêm một vài nhận xét về sự đột phá thành công của "Công ty Lương thực bà Ba Thi" như sau: Sự dũng cảm, sáng tạo trong thời đánh Mỹ là điều rất cần thiết để hỗ trợ các chiến sĩ mở đường trong thời kỳ đổi mới kinh tế. 

Phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt qua câu chuyện

Bà Ba Thi một người phụ nữ mang trọn những nét đẹp, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Từ cô Chín Ráo vừa buôn gạo, vừa dấn thân hoạt động cách mạng, tới người nữ chiến sĩ giải phóng tả xung hữu đột, thi gan với giặc, bất chấp những vướng mắc của các thể chế, luôn luôn đi theo con đường "phá xiềng" của chồng, cho đến người Giám đốc Công ty Lương thực, lúc nào bà cũng một lòng một dạ lo cho sự nghiệp chung, coi dân là quý nhất, những thể chế nhất thời chỉ là chuyện đằng sau...

Một hình ảnh phụ nữ anh hùng, một người lãnh đạo không những đã từng can đảm, dũng cảm xông pha trên mọi mặc trận kháng chiến để giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm, mà còn cả gan đứng ra chịu mọi trách nhiệm để có thể lo cho dân, vượt qua những ràng buộc, những điều cũ không có lợi cho dân. Nếu không có bà Ba Thi và những người dũng cảm tận tâm như vậy thì sẽ không có những bước đột phá, những cải cách và phát triễn để giúp nhân dân nhân thoát đói, thoát khổ.

Người cán bộ tần tảo được dân thương, dân mến. Bà là tấm gương sáng cho phụ nữ Việt Nam giỏi việc nước đảm việc nhà. Hết lòng phụng sự cho quê hương đất nước. Một tấm gương sáng nữ sáng chói giỏi việt nước đảm việc nhà đáng để phụ nữ Việt noi theo. Bà hoàn toàn Xứng đáng với 8 chữ vàng của bác Hồ “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Một tấm gương sáng đáng để phụ nữ noi theo. 

Nhận định 

Bà Ba Thi một chí khí anh hùng, một người cộng sản hết lòng vì nước, một chiến sĩ anh hùng trên mọi mặc trận. Đất nước lâm nguy bà luôn có mặc để giúp dân, giúp nước. Với những sáng kiến đổi mới, với tư duy sáng tạo và tinh thần kiên định không ngại thực hiện những cái mới cái sáng tạo. Là dũng cảm gan dạ giám đứng ra những ý kiến trái chiều.

Đó còn là những nghi vấn quy chụp lên cho bà là phá họi kinh tế thị trường. Nhưng với sự gan dạ, táo bạo bá đã đứng lên làm, những kết quả mà bà đã đật được khi giải quyết thành công nạn thiếu lương thực của thành phố, những bản kế hoạch chi tiết mà bà gửi đến trung ương giúp trung ương thay đổi góc nhìn về các chính sách của bà, những sự yêu quý kính trọng của người dân giành cho bà.

Đó cho thấy bà là người phụ nữ dũng cảm và thành công. Bà đã tạo được uy tín đột phá trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Nếu không có uy tín và những thành tích rực rỡ của Bà trong thời kỳ đánh Mỹ, khó ai có thể to được niềm tin trong những bước đột phá táo bạo để đổi mới kinh tế. Nếu không từng lăn lộn trong cuộc chiến, những người mà không ai có thể nghi ngờ về lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu CNXH như bà Ba Thi. Thì khó có thể đẩy được cỗ xe đột phá lăn bánh, vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, trắc trở của những định kiến tuy cũ kỹ nhưng lại được ngộ nhận là rất "thiêng liêng".

GHI CHÚ:

(1): Quốc Việt (04/04/2015). Nỗi ám ảnh... bo bo trong "đêm dài" đói kém. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 20/03/2023.

(2): Đặng Phong (2009). "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới. NXB Tri thức.

(3): Đặng Phong (2009). "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới. NXB Tri thức.

(4): Trí Dũng, Quang Tám (22/11/2012). Võ Văn Kiệt - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo Bình Dương. Truy cập ngày 21/03/2023.

(5): Quốc Việt (04/04/2015). Nỗi ám ảnh... bo bo trong "đêm dài" đói kém. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 20/03/2023.

(6): Theo TT (08/12/2005). “Đêm trước”đổi mới: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá. Báo Hà Nội Mới. Truy cập ngày 21/03/2023.

(7): Đặng Phong (2009). ""Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới. NXB Tri thức.

(8): Đặng Phong (2009). "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới. NXB Tri thức.

(9): Đặng Phong (2009). "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới. NXB Tri thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Trí Dũng, Quang Tám (22/11/2012). Võ Văn Kiệt - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

2. Theo TT (08/12/2005). “Đêm trước”đổi mới: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá. Báo Hà Nội Mới

3. Trần Hoàng Tiến (22/02/2012). Ám ảnh gạo mậu dịch: cơn “địa chấn” mang tên Ba Thi

4. Đặng Phong (2009). "Phá Rào" Trong Kinh Tế Vào Đêm Trước Đổi Mới. NXB Tri thức

5. Quốc Việt (04/04/2015). Nỗi ám ảnh... bo bo trong "đêm dài" đói kém

VÕ THỊ THÙY TRANG - NGUYỄN THÁI PHI ÂN