Trang chủ > Cách phân biệt đình, đền, miếu, nghè, điện, phủ, quán, am

Cách phân biệt đình, đền, miếu, nghè, điện, phủ, quán, am

30/08/2023 16:37:02

Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, miếu, phủ, quán, am… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.

Đình là gì?

Đình Đình Bảng (Bắc Ninh)

Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.

Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.

Thời xưa, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt, họp việc làng, xử kiện cùng những quy củ nhất định, có sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới.

Đình làng phát triển mạnh mẽ giai đoạn thế kỷ 16 - 18 với những cái tên như: Thổ Hà, Trùng Thượng, Trùng Hà, Tây Đằng, Chu Quyến, Hoàng Sơn… Nhưng do tàn phá của chiến tranh, điều kiện môi trường, thiên nhiên, mưa nắng mà bóng dáng của những ngôi đình cổ truyền thống dần dần mai một. 

Để phân biệt chùa và đền với đình thì điểm khác biệt rõ rệt là địa điểm, xây chùa và đền chọn nơi tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối còn đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế “tụ thủy” vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng.

Đình thường cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Nơi thiêng liêng nhất để thờ thần là điện thờ. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.

Đền là gì?

Đền Nguyễn Trung Trực (Phú Quốc)

Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.

Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Như đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh… thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.

Ở chùa người ta sẽ tụng kinh còn ở đền, phủ là hát hầu đồng và hát chầu văn. Tuy nhiên nghi lễ này chỉ do những Thanh đồng tức những người có căn quả hợp để hầu Thánh và Mẫu. Theo tín ngưỡng thờ Mẫu thì hầu đồng chính là nghi lễ mà các Thanh đồng được thánh giáng đồng (nhập xác) thông qua các giá hầu để ban phát phúc, lộc cho mọi người). 

Bài trí trong đền thì thông thường ban ngoài cùng sẽ là ban tứ phủ công đồng (có Ngọc Hoàng bệ hạ, Nam Tào, Bắc Đẩu và các quan trong tứ phủ, tam tòa trong đạo thờ Mẫu và thờ Thánh là tín ngưỡng bản địa của Việt Nam) trong hậu điện mới thờ vị thánh, thần ngự tại đền.

Người đến cúng đền nên tìm hiểu về danh tính, sắc phong, công đức và tiểu sử của vị thần, thánh ngự trong đền để kêu đúng danh tính của các ngài khi cúng lễ. Theo tín ngưỡng phong tục dân gian, sắp lễ tại đền thì có thể cúng hoa quả, bánh trái, chè thuốc, trầu cau, nhang đèn (nến) và lễ mặn (chủ yếu cúng lễ mặn như rượu, xôi và thịt tại ban công đồng), sắp lễ tùy tâm không kể ít nhiều nhưng phải thành kính và sạch sẽ, đồ cúng tươi ngon (hoa tươi, quả tốt).

Miếu là gì?

Miếu bà Phước Thạnh (Tây Ninh)

Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu - tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.

Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu Thổ thần hoặc Thần hậu thổ. Ngoài ra có những miếu nổi tiếng như:  

- Thái miếu: thờ các vị chúa Nguyễn

- Văn miếu/ Văn thánh miếu: thờ Khổng Tử 

- Võ miếu: thờ Quan Công. Riêng ở Huế thờ Trần Quốc Tuấn và các vị tướng công thần nhà Nguyễn

- Y miếu: thờ Phục y, Thần nông, Hoàng đế, Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãng Ông

Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.

Miếu còn được gọi là miễu (cách gọi của người miền Nam).

Nghè là gì?

Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng, Hải Dương).

Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh, hiện là ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.

Điện thờ là gì?

Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ vua chúa ở, chỗ thần thánh ngự. Như vậy điện thờ là một hình thức của đền, là nơi thờ thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của điện nhỏ hơn đền và phủ, lớn hơn so với miếu thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.

Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã…

Phủ là gì?

Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu phủ là nơi thờ tự Thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn tổ của sơn môn đạo Phật).

Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.

Quán là gì?

Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.

Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.

Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, mặt trời, mặt trăng, hồ phủ, kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).

Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh quán, Lâm Dương quán, Hội Linh quán, Linh Tiên quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).

Am là gì?

Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.

Với người Việt, am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu - Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng - vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là am.

LÂM HOÀI PHƯƠNG 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- VOV - Văn Hóa - Di sản - Hành trình tâm linh