Mạch nguồn văn hóa dòng họ, thờ cúng các danh nhân và anh hùng dân tộc
30/04/2025 15:07:16Tham luận của ThS Hoàng Thị Kiều Trang viết cho Tọa đàm khoa học với chủ đề “Việc họ” do Viện Lịch sử Dòng họ tổ chức ngày 28/6/2024, tại Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM (5 Nam Quốc Cang, Q.1).
Ở Việt Nam, dòng họ là một cộng đồng văn hóa lớn luôn có sức tỏa sáng. Dòng họ có tác dụng gắn kết mọi gia đình trong việc duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của họ tộc, động viên các gia đình giữ gìn gia phong, thực hiện gia giáo là một biểu hiện sinh động trong tâm linh của người Việt. Nét đẹp gắn liền trong dòng họ là lòng tín mộ các tín ngưỡng đầy tính dân gian và tính phổ biến của riêng người Việt Nam. Đó là sự thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu mạch nguồn văn hóa dòng họ trong việc thờ cúng các danh nhân và anh hùng dân tộc.
1. Khái niệm “văn hóa” và văn hóa thờ cúng các danh nhân và anh hùng dân tộc
Văn hóa được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực – giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội(1).
Bàn về thời điểm xuất hiện và các đối tượng sùng mộ của các tín ngưỡng của người Việt Nam, học giả Đào Duy Anh đã viết: “… ta có thể đoán rằng tổ tiên ta ở đời thượng cổ tín ngưỡng một thứ tự nhiên đa thần giáo, tin rằng phàm các hiện tượng và thế lực tự nhiên ở trong vũ trụ, như trời đất, mưa gió, núi sông, đều có thần linh chủ trương. Có lẽ người ta tưởng rằng linh hồn người chết thường đi lại với người sống…”(2) .
Một tác giả Tây phương, Linh mục Léopold Cadière cũng đưa ra kết luận cho công trình nghiên cứu về các tín ngưỡng của người Việt Nam như sau: “Đến đây, ta thử xác định xem tôn giáo của người Việt Nam là gì. Có hai tôn giáo chính, (một) là tôn giáo thờ thần, tôn giáo này có hai đối tượng vì sự thờ cúng có thể hướng về các lực lượng thiên nhiên được ngôi vị hóa, và có thể hướng về những linh hồn người chết mà tôi hiểu đó là đó là sự thờ cúng các anh hùng, các vong hồn và tổ tiên(3) .
Dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu về văn hóa thờ cúng tổ tiên, các danh nhân và anh hùng của người Việt Nam trong dòng họ. Các vị ấy khi sống đã là những người con ưu việt của đất nước, khi chết đi đã được hậu thế nhớ ơn, tin tưởng là đặc biệt linh thiêng và tôn là thần là thánh và thành tâm thực hành việc thờ cúng. Sự thờ cúng các danh nhân và anh hùng trong dòng họ là một trong ba sự thờ cúng các nhân thần, vì thế sự thờ cúng này sẽ có chung nguyên do thứ nhất (tin vào linh hồn thuyết) với sự thờ cúng tổ tiên và sự thờ cúng các vong hồn, đồng thời có nguyên do thứ hai (nhớ công ơn của các vị) tuơng tự sự thờ cúng tổ tiên.
Người Việt cho rằng “sự sống là hậu quả của một sự hợp nhất…của hồn và phách (vía), và cuộc sống sẽ kéo dài bao lâu hai nguyên lí này còn hợp nhất, sự phân li dẫn tới cái chết. Ngay lúc phân li, hồn cao hơn, hồn khí hay khí nóng, bay lên không gian và trở về trời, nơi từ đó nó đã đến. Do đó, sức nóng phát sinh sự sống rời bỏ các phần thân thể từ từ theo mức độ không cảm thấy được, đó chính là hồn bên trong, còn hình phách trở về với đất, nguồn gốc của nó.
Trong mỗi cuộc lễ tôn kính những ngừời đã chết hay các thần linh nói chung, chính y niệm về các hồn đã giải thích nghi thức đốt những que hương và đổ rượu xuống đất. Khói của hương bay lên tới các hồn trong không gian đã mời các hồn ngự xuống trên bàn thờ. Trái lại, đã chạm tới phách ở dưới đất, khi đọc xong lời nguyện, vị chủ lễ lại đổ một chút rượu xuống đất và chạm tới các phách… Từ điều nói trên, xem ra nơi những kẻ chết, các hồn và các phách hiện diện phân rẽ, các hồn có đời sống trên không khí và các phách thì sống trong lòng đất”(4) .
Con người Việt chẳng những tin linh hồn trường tồn, mà còn tin các linh hồn khi lìa xác vẫn còn tiếp tục lui tới với người sống và hòa mình vào tất cả các hoạt động để phụ giúp hay đối nghịch lại. Linh hồn kẻ chết vẫn còn tiếp tục chịu số phận y hệt khi còn sống, vẫn có điều kiện xã hội như thế, vẫn có những nhu cầu như thế. Nếu mộ phần của họ được tôn kính và được săn sóc cẩn thận, nếu họ được cúng kiến trong các kì lễ với những lễ vật như rượu, cơm, trái cây hoặc vật dụng tượng trưng bằng giấy như ngựa, xe, nhà, thuyền, y phục, người hầu…;(những vật dụng này sẽ được gửi cho các hồn bằng cách hỏa thiêu sau khi cúng lễ) thì khi nhận được lễ vật, các hồn sẽ sung sướng, sẽ có thiện cảm với người dâng cúng và đáp lại lòng tôn kính ấy bằng cách ban những ân huệ.
Như thế, mối cảm thông giữa kẻ chết và người sống đã được thành lập thật sự. Song nếu kẻ chết không được chôn cất, không có mộ phần, dường như là bị bỏ rơi và khổ sở, họ sẽ trở nên đáng sợ. Họ là những cô hồn hoặc ma quỷ luôn luôn tìm cách làm khổ người ta. Vì vậy, do sự sợ hãi và do lòng thương xót mà người ta lập nên những bàn thờ thô sơ để thờ kính những linh hồn xấu số đó. Nơi một số gia đình, mỗi buổi sáng thức dậy, ra mở cửa, người ta tung ra trước nhà một nắm gạo, mong làm vui lòng các cô hồn.
Chính niềm tin con người ta có linh hồn và linh hồn trường tồn sau khi chết, linh hồn vẫn phảng phất đâu đây, vẫn giao cảm cùng cõi nhân sinh, đã khiến cho người Việt Nam thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các danh nhân, anh hùng và thờ cúng các vong hồn.
2. Văn hóa dòng họ trong thờ cúng các danh nhân và anh hùng dân tộc
2.1 Dòng họ tưởng nhớ công lao hiển hách của các danh nhân, anh hùng
Trong phạm vi làng xã hay quốc gia, thường hay xuất hiện những danh nhân, anh hùng. Các ngài là những vĩ nhân, những công dân kiệt xuất bởi công lao to lớn đối với làng xã, đối với đất nước. Do đó, khi chết đi, các ngài được dân chúng tin tưởng là đặc biệt anh linh và tôn lên làm thần. Trong số đó, có những vị được chính thức công nhận bởi các chức sắc của làng xã, có những vị được nhà vua ban sắc phong.
Trong phạm vi dòng họ người Việt Nam thường giữ đạo hiếu. Theo đạo hiếu, con cháu nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cho nên hết lòng phụng dưỡng khi còn sống; khi các ngài khuất núi, trong niềm tin hương hồn các ngài vẫn hiện diện gần gũi đâu đây trong cõi vô hình thì con cháu cúng giỗ để tưởng nhớ các ngài đồng thời dâng hiến những lễ vật để các ngài hưởng dùng. Việc thờ cúng tổ tiên, các danh nhân, anh hùng trong dòng họ chẳng những do lòng biết ơn các ngài mà còn do thành tâm cầu xin các ngài phù giúp dòng họ hoặc xin các ngài tiếp tục góp công bảo vệ đất nước.
2.2. Dòng họ muốn noi gương các đức tính đặc biệt của các ngài
Giáo sư Lê Hữu Mục trong phần Dẫn nhập bản dịch cuốn Việt Định U Linh Tập đã viết: “Theo tác giả (tức Lí Tế Xuyên) thì thần thánh có ai là xa lạ đâu. Đó là những người trần mắt thịt như tất cả chúng ta, chỉ khác một điều là các người ấy đã sống một đời sống siêu phàm, trong sự cần lao cam khổ, trong sự phục vụ tích cực, trong nỗ lực chống lại sự quyến rũ của vật chất; thần thánh là những người đã sống hết tất cả kích thước của người, tận cùng biên giới nhân loại. Đến trình độ ấy, giá trị của con người tự nhiên được gia tăng, con người có thể tham dự vào đời sống linh thiêng để tiếp tục quảng bố ơn cương thường như trước, đến giai đoạn này, các vị anh hùng xứng đáng được lòng ngưỡng mộ sùng kính của nhân dân. Việc có đền miếu phụng tự trở thành một điều kiện phải có. Ta không lạ gì khi thấy có nhiều vị thần hiển linh như muốn được hưởng tế tự lâu dài… Thần thánh là kiểu mẫu lí tưởng của nhân dân, họ cần được sự phù trợ của thần, nhưng hơn hết tất cả, họ mong muốn được nên giống như thần thánh, có can đảm chống lại dục vọng của họ để đi lên cao hơn”(5) .Qua đây ta thấy sự thờ cúng tổ tiên, các danh nhân, anh hùng còn mang tính giáo dục con cháu trong dòng họ.
3. Thực hành thờ cúng các danh nhân, anh hùng trong dòng họ.
3.1 Sơ lược về các danh nhân, anh hùng người Việt
Người dân Việt Nam, qua bao thế hệ, đã lập đền thờ các danh nhân, anh hùng ở khắp nơi. Ở miền Bắc, từ lâu đã có đền Hùng thờ quốc tổ Hùng Vương trên núi Hi Cương, còn gọi là Nghĩa Cương hay núi Hùng Lĩnh hoặc Hùng Sơn, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hi Chương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ở Miền Nam trước 1975, vào ngày giỗ quốc tổ mồng 10 tháng ba âm lịch cũng đã từng có tổ chức cúng tế chính thức ở vườn Tao Đàn, còn việc vận động xây đền thờ quốc tổ vẫn chưa thực hiện được do cuộc chiến lúc đó ngày một leo thang, ác liệt. Sau 1975, đền đức thánh Khổng ở thảo cầm viên Sài Gòn đã được biến thành đền thờ quốc tổ Hùng Vương. Cũng phải kể tới Kinh Dương Vương có đền thờ ở Siêu Loại, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; An Dương Vương có đền thờ ở Xóm Chùa, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội và Phù Đổng Thiên Vương có đền thờ mang danh là đền Dóng hay đền Phù Đổng ở làng Dóng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Trong cuốn Việt Điện U Linh Tập viết vào năm 1329, Lí Tế Xuyên đã kể lai lịch, công nghiệp và sự thờ cúng của người đời sau đối với một số các vị danh nhân, anh hùng dân tộc như sau: sáu vị thuộc hạng vương là Sĩ Nhiếp, Phùng Hưng, Triệu Việt Vương, Thần Xã Tắc, Hai Bà Trưng và Mị Ê; mười vị thần là Lí Hoảng, Lí Ông Trọng, Lí Thường Kiệt, Tô Lịch, Phạm Cự Lượng, Lê Phụng Hiểu, Mục Thận, Trương Hống và Trương Hát, Lí Phục Man, Lí Đô Úy, Cao Lỗ(6) .
Trần Thế Pháp trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái viết vào cuối đời Trần cũng kể nhiều chuyện danh nhân, anh hùng, trong đó nhiều vị được dân chúng sùng bái đặc biệt, như: Phù Đổng Thiên Vương, Lí Ông Trọng(7)…
Đối với Hai Bà Trưng, dân lập đền thờ ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây và tại một đền thờ khác ở làng Đồng Nhân, nay đã dời về phố Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Bà Triệu có đền thờ trên núi Gai, thôn Phú Diễn, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Anh hùng Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán có đền Ngô Vương tại nguyên quán ngài thuộc xã Đường Lâm, nay là thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.Tại Hoa Lư, Ninh Bình, có tượng và đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.
Tại làng Yên Lãng gần Cầu Giấy, có tượng thờ vua Lí Thánh Tôn; ở Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh có đền Lí Bát Đế thờ 8 vị vua thời Lí. Anh hùng Lí Thường Kiệt đánh Tống bình Chiêm có hai đền thờ ở Thanh Hóa: đền Lí Thái Úy ở xã Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc và đền Lí Thường Kiệt ở làng Hà Ngọc, huyện Hà Trung.Tại khu di tích An Sinh thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh có đền thờ và lăng mộ của 7 vị vua nhà Trần. Tại xã Tức Mặc, nay là xã Lộc Vương, ngoại thành Nam Định có đền Trần Đế Vương thờ 12 vị vua nhà Trần. Đại anh hùng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có đền thờ ở Kiếp Bạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, ngoài ra ngài còn được thờ ở đền Cổ Trạch, Thiên Trường, Nam Định và tại đền A Sào, huyện Phụ Dực, nay là huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Tại Sài Gòn cũng có đền Đức Thánh Trần ở đường Hiền Vương.
Nhà vua anh hùng Lê Lợi có đền thờ ở xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, hai bên phải trái thờ Lê Lai và Nguyễn Trãi. Anh hùng Nguyễn Trãi có đền thờ ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Danh tướng Phạm Ngũ Lão có đền thờ Phù Ủng (tên làng quê ông) tại số 25, phố Lí Quốc Sư, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Các danh nhân như Chu Văn An có đền thờ ở Thanh Trì, Hà Nội; Mạc Đĩnh Chi có đền thờ Mạc Trạng Nguyên ở xã Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; Nguyễn Bỉnh Khiêm có đền thờ Trình Quốc Công ở quê hương ông là xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng; thi hào Nguyễn Du có nhà thờ ở xã Xuân Tiên, huyện Nghi Xuân, trước là Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh.Vua Quang Trung là anh hùng vĩ đại của dân tộc, song đối với nhà Nguyễn, ngài là kẻ thù không đội trời chung, cho nên kể từ 1802 khi vua Gia Long nhà Nguyễn lên ngôi cửu ngũ, vị trí của anh hùng Quang Trung chỉ còn tồn tại trong lòng những người ngưỡng mộ. Mãi sau này, tại Tây Sơn, Bình Định quê hương của ngài mới tổ chức việc thờ cúng; hiện nay, hàng năm còn tổ chức hội lễ Quang Trung.
Tại cố đô Huế có Thế (Thái) miếu thờ các tiên vương triều Nguyễn, các vị công thần có bài vị thờ kính hai bên. Trong cuộc trường chinh thống nhất đất nước của vua Gia Long, nhiều bộ tướng đã lập chiến công hiển hách, các vị này được triều Nguyễn và dân Lục tỉnh (miền Nam Việt Nam), đất hưng nghiệp của triều Nguyễn, tôn lên ngang hàng các anh hùng và dành cho các vị sự sùng bái đặc biệt.
Tại vùng Sài Gòn, có đền thờ Bình Giang quận công Võ Di Nguy ở đường mang tên ông thuộc Phú Nhuận. Cũng tại Phú Nhuận, có đền thờ Long Vân hầu Trương Tấn Bửu. Đặc biệt ngài Thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt được thờ cúng tại đền thờ ngay trước tòa hành chánh tỉnh Gia Định, thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu.
Trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa của Vương Hồng Sển còn kể có miếu Hiển Trung do vua Gia Long cho xây dựng để thờ hàng trăm bài vị các bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, miếu tọa lạc tại thành Ô Ma (Camp des Mares), sau này là vị trí Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia; vua Thiệu Trị cho tu sửa năm 1847, tới 1954, miếu bị phá hủy (8). Ngoài ra, tại khắp nơi ở Miền Nam còn có nhiều đền thờ các danh nhân, anh hùng khác, chẳng hạn như ở Hà Tiên có đền thờ Mạc Thiên Tứ, ở Long An và Gò Công có đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức, ở Châu Đốc có đền thờ Trương Tấn Bửu, v.v..
Từ khi Pháp đặt nền đô hộ ở nước ta, giới sĩ phu, trí thức và thanh niên Việt Nam đã nhiều phen đứng lên tranh đấu cho nền độc lập nước nhà bằng các phong trào kháng chiến vũ trang hoặc các cuộc vận động có tính cách văn hóa, chính trị. Các vị là các nhà cách mạng, các nhà ái quốc và khi chết, các vị cũng đã được dòng họ lập đền thờ để tưởng nhớ, phụng thờ, chẳng hạn như cụ Phan Chu Trinh, cụ Huỳnh Thúc Kháng…
3.2. Nơi thờ cúng
Nơi thờ cúng các danh nhân, anh hùng có tên gọi khác nhau tùy theo thói quen từng nơi, tùy theo uy danh của các vị được thờ cúng và tùy theo kích thước to hay nhỏ của nơi thờ cúng (đình, đền, miếu, từ đường của dòng họ). Để tưởng nhớ, con cháu các vị là người đứng ra đảm trách. Như : nhà thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng ở thôn Thạnh Bình, xã Phước Thạnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam do cháu là Huỳnh Toản chủ trì. Nhà thờ cụ Phan Tây Hồ (Phan Chu Trinh) tại đường Nguyễn Huy Tự, Đa Kao, Sài Gòn do cháu là bà Nguyễn Thị Bình săn sóc, sau này hội Trung Việt ái hữu tiếp tay lo việc thờ cúng…
3.3. Cách thờ cúng
a. Lịch lễ
Sự thực hành việc thờ cúng được quy định theo lịch lễ như sau:
Các ngày sóc, vọng: ngày sóc là mồng một đầu tháng Âm lịch, ngày vọng là ngày rằm mỗi tháng.
Tết Nguyên đán: ngày đầu năm Âm lịch.
Tết Thượng nguyên: ngày rằm tháng Giêng, Âm lịch.
Tết Thanh minh: 60 ngày sau ngày lập Xuân, tức là 60 ngày sau ngày mồng một tháng Chạp, Âm lịch.
Tết Đoan ngọ: ngày mồng 5 tháng năm, Âm lịch.
Tết Trung nguyên: ngày rằm tháng Bảy, Âm lịch.
Tết Trung Thu: ngày rằm tháng Tám, Âm lịch.
Tết Hạ nguyên: ngày rằm tháng Mười, Âm lịch.
Đặc biệt, các diên tế lễ linh đình thường được tổ chức vào dịp kỉ niệm đản sinh hoặc húy nhật (lễ giỗ) của các vị thần. Cũng có dòng họ tổ chức lễ vào dịp Xuân tế (ngày Đinh đầu tháng Hai, Âm lịch) và dịp Thu tế (ngày Đinh đầu thánh Tám, Âm lịch) tức là lễ Kì yên hay Kì phúc (lễ cầu an).
b. Nghi lễ trong các ngày lễ lớn
Do những người trong dòng họ thờ cúng có nhiệm vụ chính thức đảm trách. Nghi thức có hai thứ: cúng (hay khấn) và tế.
Cúng hay khấn được diễn ra đơn giản vào các ngày sóc, vọng và các ngày lễ lạc khác. Lễ vật gồm có nhang, rượu, xôi hoặc một mâm cỗ tương tự như khi cúng lễ tổ tiên. Bao giờ cũng có một vị đứng ra làm chủ lễ. Bắt đầu, vị chủ lễ đốt nhang, lâm râm khấn nguyện mà không cần có văn khấn, rồi vái lậy 4 lần. Những người tham dự sẽ khấn vái sau vị chủ lễ.
Lễ tế thì long trọng hơn nhiều. Thường được tổ chức một hoặc hai lần mỗi năm vào dịp kỉ niệm ngày đản sinh, hoặc ngày lễ giỗ, hoặc dịp Xuân tế, Thu tế, tuỳ nơi.
Lễ vật chính trong lễ tế gồm “vật tam sinh” (dê, bò, heo), ngoài ra còn có hoa trái, trầu rượu, xôi bánh, v.v…
Ngoài các ngày lễ nhất định kể trên, quanh năm ngày thường, tại các nhà thờ dòng họ các danh nhân, anh hùng, lúc nào cũng có hoa, đèn, hương khói nghi ngút…
Dân gia ta có câu:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn”
Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ luôn có tâm niệm lá rụng về cội. Vì vậy, việc thờ cúng danh nhân, anh hùng dân tộc trong các dòng họ đã tạo nên nét riêng độc đáo của dòng họ, dân tộc, đây là một tập quán rất trọng trong tín ngưỡng của người Việt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phục hưng dòng họ với việc phát huy các giá trị văn hóa của dòng họ để giáo dục truyền thống hướng về cội nguồn là điều quan trọng và rất cần thiết. Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên, danh nhân, anh hùng dân tộc có tác dụng lớn nuôi dưỡng ý thức hướng về cội nguồn. Con cháu khắp mọi nơi rời bỏ cương vị xã hội của mình quay về với cương vị thành viên của dòng họ để tưởng nhớ. Việc phát huy nếp sống thờ cúng tổ tiên, danh nhân, anh hùng trong dòng họ sẽ có tác động tích cực đến xây dựng gia đình văn hóa nói riêng và làng văn hóa nói chung.
CHÚ THÍCH:
(1): Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
(2): Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Xb Bốn Phương, Sài Gòn
(3) L. Cadière. Croyances et Pratiques Religieuses Annamites. IDEO, Hà Nội
(4) : Nguyễn Văn Khoan. La Repêchage de L’âme…BFEO. 30 (1933)
(5): Lê Hữu Mục. Phần Dẫn Nhập cho bản dịch cuốn Việt Điện U Linh Tập của Lí Tế Xuyên. Khai Trí, Sài Gòn, 1961
(6): Lí Tế Xuyên. Sđd
(7) : Trần Thế Pháp. Lĩnh Nam Chích Quái. Bản dịch của Lê Hữu Mục. Khai Trí, Sài Gòn, 1961.
Th.S HOÀNG THỊ KIỀU TRANG
Các tin cũ
- » Vai trò của gia tộc trong mối quan hệ với dân tộc (Qua thực tế môn phái Nam Huỳnh Đạo) 30/04/2025 14:45:55
- » UNESCO - Nơi hội tụ trí tuệ của nhân loại, thành trì của hòa bình thế giới 30/04/2025 12:50:04
- » Trao truyền tinh thần ‘việc họ’ cho thế hệ kế thừa 30/04/2025 12:09:56
- » Việc ‘họ’ và các chế định pháp luật 30/04/2025 11:55:17
- » Chữ 'lễ' trong việc họ 30/04/2025 11:21:51
- » Giới thiệu về việc làm câu đối cho nghĩa trang họ Phạm ở Nam Định 30/04/2025 10:50:25
- » Viện Lịch sử Dòng họ tổ chức du khảo mừng 30/4/2025 27/04/2025 20:22:48
- » Tọa đàm về cụ Võ Văn Nhâm & gia phả chi họ Võ ở Bà Giã 10/04/2025 18:12:22
- » Viện Lịch sử Dòng họ tổ chức tọa đàm khoa học lần 2-2024 04/01/2025 14:45:09